Hiệu ứng đám đông là gì?
Chúng ta nên tìm hiểu thuật ngữ “hiệu ứng đám đông” bằng cách phân tách hai thành phần tạo thành nên nó: “hiệu ứng” và “đám đông”.
“Hiệu ứng” là sự thay đổi về ý nghĩa, bản chất hay hành vi của một sự vật, sự việc khi chịu tác động của một tác nhân nhất định. Nói cách khác, “hiệu ứng” bao hàm nguyên nhân và kết quả của sự vật hay sự việc đó.
Trong khi đó, theo nghĩa thông thường, “đám đông” biểu thị sự hợp nhất từ những cá nhân bất kỳ, không phân biệt dân tộc, nghề nghiệp hay giới tính, và cũng bất kể sự ngẫu nhiên nào đã tập hợp đám đông đó lại.
Nhưng từ quan điểm tâm lý học, thuật ngữ “đám đông” lại mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Theo các chuyên gia, tính cách của một tập hợp người sẽ rất khác với tính cách của từng cá nhân riêng lẻ tạo thành tập hợp ấy. Lúc này, cá tính và suy nghĩ của cá nhân sẽ biến mất. Thay vào đó, những hành vi, tình cảm và tư tưởng của họ đều hướng theo một mục đích chung. Gustave Le Bon gọi đó là những “đám đông tâm lý”.
Một vài người vô tình đứng cạnh nhau không thể hình thành một đám đông có tổ chức. Một ngàn người ngẫu nhiên tụ tập ở một quãng trường cũng không thể hình thành nên một đám đông từ quan điểm tâm lý học. Nhưng nếu một ngàn người đó có chung một niềm tin tôn giáo thì lại là một câu chuyện khác.
Một đám đông tâm lý có tổ chức, dù có ý thức hay vô thức, đều được kích thích bởi một vài tác nhân nào đó. Và khi những tác nhân này khiến suy nghĩ, hành động của một nhóm người trở nên đồng nhất với nhau, chúng ta gọi đó là “hiệu ứng đám đông”. Từ đó, có thể hiểu “hiệu ứng đám đông” là một hiện tượng tâm lý khiến chúng ta có xu hướng làm theo hoặc sao chép hành vi của người khác dựa trên một hoặc nhiều nguyên nhân cụ thể.
Hiệu ứng đám đông khiến mọi người đồng lòng hỗ trợ một hoàn cảnh bất hạnh trên mạng xã hội. Ngược lại, hiệu ứng đám đông sẽ hình thành một cơn bão có sức tàn phá khủng khiếp, nếu có người chọn đi ngược lại quan điểm của số đông.
Trong kinh doanh, hiệu ứng đám đông trở thành một phần quan trọng trong chiến lược phát triển của mọi doanh nghiệp. Lý do là vì hiệu ứng đám đông là một trong các cách giúp hình thành nên những nhóm khách hàng hoặc người ủng hộ nhiệt thành cho thương hiệu.
Những “đám đông” nổi tiếng nhất hẳn là những người ủng hộ Apple. Họ sẵn sàng chờ cả ngày bên ngoài các cửa hàng Apple để được là những người đầu tiên chiêm ngưỡng các dòng iPhone mới nhất.
Thuật ngữ “hiệu ứng đám đông” được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1984 bởi nhà tâm lý học Robert Cialdini. Dựa trên công trình nghiên cứu của hai nhà xã hội học Daniel Kahneman và Amos Tversky, Cialdini đã mô tả “hiệu ứng đám đông” như một kiểu “lối tắt” trong quá trình ra quyết định của con người.
Dù không phải “trăm lần như một”, nhưng đám đông thường có quyền quyết định về tính đúng đắn của một hành động. Điều này khiến cho sự phổ biến của hành động đó trở nên hiển nhiên trong mắt người khác. Bạn không tin sao? Hãy thử xem xét ví dụ sau.
Trước đây, việc một người dành cả ngày để nhảy múa trước camera sẽ bị cho là bất thường và kỳ quặc. Thế nhưng giờ đây, với sự phổ biến của TikTok và sự tham gia của hàng triệu người, những điệu nhảy trên TikTok được xem như một chuyện vô cùng bình thường và thậm chí còn giúp nhiều người kiếm ra tiền.
Hiệu ứng đám đông thường dễ nhận biết và diễn ra trong thời gian ngắn, như phong trào quyên góp tiền từ thiện; nhưng hiệu ứng đám đông cũng có thể diễn ra trong một thời gian dài và dần dần thay đổi nhận thức, hành vi con người một cách sâu sắc, giống như cách các mạng xã hội đã và đang làm với cuộc sống chúng ta.